Việc sử dụng dữ liệu trích dẫn đã trở thành phổ biến trong các nghiên cứu và truyền thông ngày nay. Tuy nhiên, dữ liệu trích dẫn luôn có một số khó khăn nhất định để có thể sử dụng chúng như một thước đo mức độ tác động của một nghiên cứu hay sự xuất sắc của một nghiên cứu hoặc một nhà khoa học.
Nghiên cứu “A standardized citation metrics author database annotated for scientific field” của John P. A. Ioannidis và cộng sự đã chỉ ra rằng, hiện nay, không có cơ sở dữ liệu quy mô lớn nào xếp hạng một cách có hệ thống xếp hạng đủ “sâu” về tất cả các nhà khoa học được trích dẫn nhiều nhất trong mỗi lĩnh vực khoa học. Ví dụ: Google Scholar cho phép các nhà khoa học tạo hồ sơ của họ và chia sẻ công khai, nhưng không phải tất cả các nhà nghiên cứu đã tạo hồ sơ. Clarivate Analytics cung cấp cho mỗi năm một danh sách các nhà khoa học được trích dẫn nhiều nhất trong thập kỷ qua, nhưng chương trình này sử dụng phân loại khoa học thô chỉ trong 21 lĩnh vực và thậm chí danh sách mở rộng mới nhất chỉ bao gồm khoảng 6.000 nhà khoa học (https://hcr.clarivate.com/worlds-influential-scientific-minds), tức là, ít hơn 0,1% tổng số người đồng tác giả các bài báo học thuật. Hơn nữa, trong các bảng xếp hạng hiện có đều không cơ chế loại trừ việc tự trích dẫn của các nhà khoa học.
Để khắc phục những vấn đề này, nhóm nghiên cứu đã xây dựng cơ sở dữ liệu của 100.000 nhà khoa học được trích dẫn nhiều nhất (từ nguồn dữ liệu của Scopus) và xếp hạng của họ dựa vào sáu chỉ số về trích dẫn: tổng số trích dẫn; chỉ số Hirsch h-index; chỉ số Schreiber hm-index; số trích dẫn cho các bài báo được đăng với tư cách là tác giả duy nhất (single author); số trích dẫn cho các bài báolà tác giả duy nhất hoặc tác giả đầu tiên (first author) và số trích dẫn cho các bài báo là tác giả duy nhất, đầu tiên hoặc cuối cùng (last author). Cùng với đó, các nhà khoa học được phân chia vào 22 lĩnh vực khoa học và 176 lĩnh vực phụ (ngành/chuyên ngành). Ưu điểm lớn trong phương pháp xếp hạng của Nhóm là loại bỏ các tự trích dẫn (việc một số ít các nhà khoa học tự trích dẫn ồ ạt làm cho số lượng trích dẫn trở lên thiếu đi sự ý nghĩa vốn có của nó).
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức và PGS.TS Trần Xuân Bách
có mặt trong nhóm các nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới
Trong bảng xếp hạng này có hơn 40 nhà khoa học người Việt Nam, chủ yếu là các GS gốc Việt đang làm việc tại các trường đại học danh tiếng trên thế giới, như GS. Dang,Chi V, ĐH Pennsylvania (Hoa Kỳ, xếp thứ 280); GS Đàm Thanh Sơn , ĐH Chicago (Hoa Kỳ, 2648); GS Nguyen, Nam-Trung của ĐH Griffith (Úc,4595); GS Võ Dinh Tuan, ĐH Duke, (Hoa Kỳ, 15709); GS. Nguyễn Thục Quyên, Đại học California tại Santa Barbara (Hoa Kỳ, 19282); GS. Nguyễn Sơn Bình, ĐH Northwestern (Hoa Kỳ, 22482); GS.Phan, Sem H. của ĐH Michigan (Hoa Kỳ, 23062); PGS. Nguyễn Xuân Hùng (ĐH Sejong, Hàn Quốc, 25.269); GS. Nguyen Hung T, ĐH Công nghệ NSW (Úc, 33215); GS. Nguyễn Văn Tuấn, viện Garvan (Úc, 39062); GS. Trương Nguyện Thành, ĐH Utah (Hoa Kỳ, 45612); GS. Vũ Hà Văn, Đại học Yale (Hoa Kỳ, 69.063); …
Có một số rất ít các nhà khoa học trong nước có tên trong danh sách này, tiêu biểu như PGS.TS. Trần Xuân Bách (Trường ĐH Y Hà Nội, 28.129), chuyên gia nghiên cứu về y tế cộng đồng. PGS. Bách từng là người trẻ nhất Việt Nam được công nhận chức danh PGS năm 2016 khi mới 32 tuổi, và ông được vinh danh là gương mặt trẻ Thủ đô tiêu biểu năm 2016; GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội (51.083) – ông là chuyên gia về Cơ học, vật liệu và kết cấu tiên tiến, hiện là Phó Chủ tịch Hội Cơ học Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng chức danh Giáo sư ngành Cơ học của Việt Nam; PGS.TS. Nguyễn Thời Trung, Viện trưởng Viện khoa học tính toán của Trường Đại học Tôn Đức Thắng (74.339). Năm 2017, PGS. Trung đã được Trường Đại học Tôn Đức Thắng tặng thưởng danh hiệu “Nhà khoa học đặc biệt xuất sắc trong nghiên cứu khoa học” và Giải thưởng Thành tựu trọn đời (Lifetime Achievement),… Ngoài ra, trong top 100.000 nhà khoa học còn có sự góp mặt của TS. Trần Đình Phong, Trưởng khoa Khoa học cơ bản và Ứng dụng, Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội – USTH – một trong hai hai nhà khoa học được nhận giải chính của Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2018. Sự có mặt của các nhà khoa học xuất sắc trong nước, tuy còn ít ỏi, trong bảng xếp hạng này đã thể hiện sự nỗ lực vượt bậc của các nhà khoa học Việt Nam đang từng bước khẳng định và hội nhập với các chuẩn mực của quốc tế.
Ngày 11/9/2019, Thời báo Giáo dục đại học (Times Higher Education, THE) công bố kết quả xếp hạng đại học thế giới mới nhất (World University Rankings 2020) trong sự kiện Hội nghị Thượng đỉnh về học thuật của THE tổ chức tại Zurich (Thụy Sỹ). Theo đó, lần đầu tiên ĐHQGHN và 02 cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam được THE công bố thứ hạng cùng với gần 1.400 cơ sở giáo dục đại học hàng đầu thế giới. Trong đó, ĐHQGHN cùng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội thuộc nhóm 801-1000 thế giới; tiếp theo là Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trong nhóm 1000+.
Ngoài việc được xếp hạng vào nhóm 801 - 1000 thuộc Bảng xếp hạng đại học thế giới của THE, ĐHQGHN còn nằm trong nhóm 801-1000 thuộc Bảng xếp hạng đại học thế giới của QS, đứng thứ 124 trong Bảng xếp hạng đại học châu Á của QS. Tại Bảng xếp hạng Webometrics (về xây dựng đại học số hóa), ĐHQGHN cũng tiếp cận top 1000 thế giới và đứng đầu trong các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam. ĐHQGHN cũng có nhiều ngành đào tạo thuộc top 1000 thế giới thuộc bảng xếp hạng QS như: nhóm ngành vật lý và thiên văn học thuộc nhóm 501 - 550 thế giới (đứng đầu ở Việt Nam); nhóm ngành Cơ học Kỹ thuật đứng thứ 451-500, và nhóm ngành khoa học máy tính và hệ thống thông tin đứng thứ 551-600. Riêng đối với lĩnh vực Vật lý, ĐHQGHN là cơ sở đại học duy nhất ở Việt Nam được US NEWS xếp hạng và đứng thứ 502 thế giới.
Bài viết tham khảo dữ liệu từ nghiên cứu “A standardized citation metrics author database annotated for scientific field”của John P. A. Ioannidis và cộng sự trên Tạp chí khoa học PLOS Biology (https://journals.plos.org/plosbiology/article?id=10.1371/journal.pbio.3000384)
Dẫn lại từ: VNU Media